Page 17 - Dược Lâm Sàng
P. 17

Những chất cảm ứng enzym chính: Barbituric (đặc biệt là phenobarbital) gluthetimid, thuốc
               chống co giật (diphenylhydantoin), kháng sinh (rifampicin), steroid (spironolacton, thuốc tăng
               đồng  hoá),  ethanol,  hydrocacbon  thơm  đa  vòng  (đặc  biệt  benzo  (a)  pyren,  methyl-3-
               cholanthren), thuốc diệt côn trùng có clo (DDT).
               Sự ức chế enzym

               Cơ chế này cũng phức tạp không kém cơ chế cảm ứng. Sự ức chế có thể không chọn lọc, do
               hiện tƣợng độc với gan (Ví dụ carbon tetraclorid) hoặc do giảm tổng hợp enzym gan.
               Những  ức  chế  hay  gặp  nhất  thƣờng  xảy  ra  ở  các  monooxygenase  và  đặc  biệt  ở  một  số
               cytochrom P  450  (Ví dụ IMAO)

               Sự ức chế có thể cạnh tranh, không cạnh tranh, thậm chí hỗn hợp. Trên thực tế tất cả còn cần
               tìm hiểu tiếp. Vấn đề càng trở nên phức tạp khi ngƣời ta biết là một số sản phẩm của chuyển
               hoá, đặc biệt các chất chuyển hoá hydroxyl hoá, có tác dụng ức chế biến đổi sinh học của chất
               mẹ hoặc một số cơ chất khác. Nhƣ vậy, sự ức chế enzym dẫn đến tăng cƣờng tác dụng của
               thuốc bị ức chế, thể hiện ở tăng nửa đời của thuốc trong huyết tƣơng, và (hoặc) tăng độc tính.

               Cimetidin  là  một  chất  ức  chế  đáng  quan  tâm,  thuốc  này  làm  tăng  thời  gian  tác  dụng  của
               diazepam do kéo dài nửa đời và giảm độ thanh thải. Cimetidin ức chế hoạt tính của microsom,
               hoạt  tính  này  chi  phối  các  phản  ứng  khử  alkyl  và  hydroxyl  hoá  các  benzodiazepin  nhƣ
               diazepam,  chlordiazepoxid,  di-kali  chlorazepat,  prazepam  và  medazepam.  Trái  lại,  các
               benzodiazepin khác nhƣ oxazepam hay lorazepam do liên hợp với acid glycuronic (hiện tƣợng
               này không chịu sự kiểm soát của microsom gan) nên hoạt tính của chúng không bị thay đổi khi
               dùng đồng thời với cimetidin. Cũng nhƣ vậy, cimetidin làm tăng nồng độ của phenylhydantoin,
               theophylin, carbamazepin trong huyết tƣơng. Do các thuốc này có phạm vi điều trị hẹp nên
               cần theo dõi cẩn thận những phối hợp này, hoặc nên tránh.

               Cần ghi nhớ:
               -      Sự ức chế enzym là một hiện tƣợng xẩy ra sớm hơn nhiều so với sự cảm ứng enzym.

               -      Sự ức chế enzym có thể xẩy ra không chỉ ở tế bào gan, mà còn cả ở ruột.

               -      Cùng một thuốc có thể có tác dụng cảm ứng hoặc ức chế enzym tuỳ theo liều lƣợng
               dùng và thời gian điều trị (ví dụ rƣợu)

               -      Sự ức chế enzym có thể đặc hiệu.

               Chất neostigmin ức chế các cholinesterase huyết tƣơng, nên cho phép loại bỏ tác dụng của các
               cura không khử cực. Những chất ức chế monoamin - oxydase (IMAO) tƣơng tác với nhiều chất
               nhƣ các chất giống thần kinh giao cảm, các thuốc giảm đau kiểu morphin, các barbituric. Các
               thuốc giảm đau kiểu morphin làm tuỷ thƣợng thận giải phóng catecholamin vào tuần hoàn. Nhƣ
               vậy  nguy  cơ  cơn  tăng  huyết  áp  tăng  lên,  vì  catecholamin  trong  tuần  hoàn  không  bị  enzym
               MAO phá huỷ sẽ tác động trên những thụ thể alpha không bị kích thích (phong bế bởi các
               IMAO).

               Một số chất ức chế chuyển hoá thuốc: Rƣợu, ở liều rất cao hay ở liều thấp hơn nhƣng dùng
               dài ngày có tác dụng nhƣ chất cảm ứng enzym. Cloramphenicol, các estrogen, các chất estro -
                                                                17
   12   13   14   15   16   17   18   19   20   21   22