Page 21 - Dược Lâm Sàng
P. 21

  Trái  lại,  các  thuốc  kém  bền  trong  môi  trƣờng  acid  nhƣ  ampicilin,
               erythromycin, lincomycin… nếu bị lƣu tại dạ dày lâu sẽ tăng khả năng bị phá hủy và do đó
               giảm sinh khả dụng.

                                   Với các thuốc đƣợc bào chế dƣới dạng viên bao tan trong ruột, viên
               giải phóng chậm thì việc giữ lại dạ dày lâu là hoàn toàn bất lợi vì màng bao viên có thể bị
               vỡ, gây ảnh hƣởng đến tác dụng của thuốc. Do đó nên uống các thuốc loại này trƣớc bữa
               ăn chừng 30 phút đến 1 giờ hoặc 1 – 2 giờ sau khi ăn.

                            Thức ăn làm cản trở sự di chuyển của thuốc trong lòng ruột, do đó nếu uống
               thuốc sau bữa ăn, thuốc sẽ bị khối thức ăn cản trở và di chuyển chậm trong ống tiêu hóa.
               Lợi dụng: các thuốc giải phóng chậm, thuốc cần tác dụng tại chỗ trong lòng ruột, nếu uống
               vào thời điểm sau khi ăn chừng 1 – 2 giờ là thích hợp.

                            Thức ăn kích thích sự tiết mật, đặc biệt là thức ăn giàu chất béo. Điều này sẽ
               có lợi cho việc hấp thu các tan nhiều trong mỡ nhƣ griseofulvin; vitamin A, D, E, K…

                            Thức ăn hoạt hóa hệ thống men vận chuyển các chất qua thành ruột, nhờ vậy
               mà sự hấp thu các thuốc có bản chất là các hợp phần dinh dƣỡng nhƣ các vitamin, glucose,
               acid amin, các muối khoáng… sẽ dễ dàng hơn.

                            Ảnh hƣởng của hợp phần thức ăn đến sự hấp thu thuốc: bữa ăn giàu chất béo,
               quá nhiều đƣờng, quá mặn hoặc quá chua đều cản trở sự di chuyển của khối thức ăn từ dạ
               dày xuống ruột. Điều này sẽ ảnh hƣởng không tốt đến các thuốc kém bền trong môi trƣờng
               acid của dạ dày và làm chậm sự di chuyển của thuốc đến vị trí hấp thu tối ƣu là ruột non.

                            Ảnh hƣởng của thức ăn đến sự hấp thu thuốc còn phụ thuộc nhiều vào dạng
               bào chế của thuốc: các dạng thuốc rắn, thuốc có độ tan thấp bị ảnh hƣởng bởi thức ăn
               nhiều hơn các dạng thuốc lỏng, thuốc ở dạng dung dịch, cồn thuốc…

                          Ví dụ: aspirin dạng viên nén uống sau khi ăn sẽ bị giảm sinh khả dụng 50%, trong
               khi đó aspirin sủi bọt lại không bị thức ản cản trở hấp thu.
                          Ở đây cần phải phân biệt khái niệm: giảm hấp thu và chậm hấp thu.

                          +  Một số thuốc bị thức ăn làm giảm hấp thu tức là tổng lƣợng thuốc vào máu
               nếu uống cùng với bữa ăn sẽ bị giảm so với uống cách xa bữa ăn. Trƣờng hợp này nên
               uống cách xa bữa ăn (trƣớc 30 phút – 1 giờ hoặc sau khi ăn 2 giờ).
                          +  Một thuốc bị thức ăn làm chậm hấp thu có nghĩa là thời gian để thuốc đạt
               nồng độ tối đa trong máu nếu uống sau khi ăn sẽ dài hơn nếu uống xa bữa ăn (lúc đói),
               nhƣng tổng lƣợng thuốc vào máu có thể không bị ảnh hƣởng. Ví dụ: các sulfamid kháng
               khuẩn, amoxicilin, digoxin… trƣờng hợp này có thể uống thuốc sau khi ăn để tránh tác
               dụng phụ do kích ứng đƣờng tiêu hóa (nếu có).

                          +  Những thuốc không bị thức ăn làm ảnh hƣởng đến hấp thu có thể uống lúc
               nào tùy ý nhƣng uống vào bữa ăn vẫn tốt hơn vì sẽ giảm đƣợc tác dụng phụ do kích ứng
               đƣờng tiêu hóa. Trƣờng hợp này thƣờng xảy ra với thuốc có độ tan kém; lúc này lƣợng



                                                                21
   16   17   18   19   20   21   22   23   24   25   26