Page 51 - Dược Lâm Sàng
P. 51
3. MỘT SỐ XÉT NGHIỆM HUYẾT HỌC
Trong máu có ba loại huyết cầu: hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu. Xét nghiệm tế bào
máu giúp cho chẩn đoán và theo dõi tiến triển của bệnh, mặt khác giúp cho việc theo dõi
tác dụng của thuốc và cả những tác dụng không mong muốn của thuốc.
3.1. Hồng cầu
Hồng cầu là một trong những thành phần hữu hình của máu với vai trò chủ yếu là
vận chuyển hemoglobin (huyết sắc tố) rồi hemoglobin sẽ vận chuyển oxy từ phổi đến các
mô. Hồng cầu có hình đĩa lõm hai mặt nên tỷ lệ giữa diện tích của màng bao bọc tế bào so
với các thành phần chứa bên trong tế bào là rất lớn. Hồng cầu cũng có thể thay đổi hình
dạng khi đi qua các mao mạch. Xét nghiệm về hồng cầu rất phong phú, ở đây chỉ trình bày
một số xét nghiệm cơ bản sau:
• Số lƣợng hồng cầu
3
12
Bình thƣờng ở nam có 4.200.000 ± 200.000/1 mm (SI: 4,2 ± 0,2 x 10 /L). Ở nữ
3
12
3.850.000 ± 150.000/1 mm (SI: 3,85 ± 0,15 x 10 /L).
Hồng cầu giảm: Thiếu máu do nhiều nguyên nhân – có thể do giảm tổng hợp (suy
tủy, rối loạn tổng hợp porphyrin…), tăng phá hủy (thiếu máu tan máu) hoặc do mất máu.
Hồng cầu tăng (đa hồng cầu): trong trƣờng hợp mô bị thiếu oxy, sẽ có quá trình điều
hòa kích thích tạo hồng cầu ở tủy xƣơng. Nguyên nhân gây thiếu oxy ở mô có thể do sống
ở vùng cao, suy tim, các bệnh đƣờng hô hấp… và những nguyên nhân này có thể gây tăng
hồng cầu thứ phát và số lƣợng hồng cầu có thể tăng đến 6 – 8 triệu/ 1mm3. Bên cạnh đó,
còn có các trƣờng hợp tăng hồng cầu do bệnh lý, vì một nguyên nhân nào đó, tủy xƣơng
sản xuất ra quá nhiều hồng cầu, trong trƣờng hợp này số lƣợng bạch cầu và tiểu cầu đều
tăng.
• Nồng độ hemoglobin
Nồng độ huyết sắc tố ngƣời Việt Nam bình thƣờng là: Nam 14,6 ± 0,6 g/dl (SI: 2,26
± 0,09 mmol/L); Nữ 13,2 ± 0,5 g/dl (SI: 2,04 ± 0,08 mmol/L). Đƣợc coi là thiếu máu khi
nồng độ huyết sắc tố thấp hơn 13 g/dl ở nam và 12 g/dl ở nữ; nhƣng cũng có trƣờng hợp
thiếu máu giả tạo do máu bị hòa loãng tăng thể tích huyết tƣơng.
• Hematocrit
Nếu ly tâm máu toàn phần đã chống đông trong một ống mao quản, sẽ tách đƣợc 2
phần: phần trên lỏng là huyết tƣơng, phần dƣới đặc là các huyết cầu. So sánh tỷ lệ phần
trăm giữa thể tích huyết cầu với máu toàn phần đƣợc gọi là hematocrit. Trên thực tế, để dễ
dàng tính toán ngƣời ta sử dụng một loại ống ly tâm riêng có khắc các vạch từ 0 đến 100
gọi là ống hematocrit. Sau khi ly tâm, không cần tính thể tích các lớp mà thƣờng tính
hematocrit bằng cách so sánh chiều cao của 2 lớp.
Ở ngƣời bình thƣờng, hematocrit có giá trị 39 – 45% hoặc 0,39 – 0,45 ở nam; 35-
42% hoặc 0,35 – 0,42 ở nữ.
51